Những nội dung cốt lõi trong Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng

19/10/2015 09:07

Nội dung tài liệu gồm sáu phần:

Phần thứ nhất, nêu chủ đề và phương châm chỉ đạo của Đại hội XII.

Phần thứ hai, đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015) và nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016); mục tiêu tổng quát và động lực phát triển đất nước  5 năm (2016 - 2020).

Phần thứ ba, về kinh tế.

Phần thứ tư, về văn hóa, xã hội và môi trường.

Phần thứ năm, về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Phần thứ sáu, về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
 

Phần thứ nhất

CHỦ ĐỀ VÀ PHƯƠNG CHÂM CHỈ ĐẠO
 CỦA ĐẠI HỘI XII 


 

I. CHỦ ĐỀ ĐẠI HỘI XII

1. Sự cần thiết và yêu cầu đối với chủ đề Đại hội

Trung ương đã thảo luận và thống nhất cần thiết phải có chủ đề Đại hội. Đó là tư tưởng chỉ đạo, thể hiện mục tiêu cơ bản nhất và nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong nhiệm kỳ, có ý nghĩa quy tụ sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chủ đề Đại hội định hướng chung cho việc xây dựng các văn kiện của Đại hội, cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị tại Đại hội.

Chủ đề Đại hội cần nêu những mục tiêu cơ bản nhất, bao quát nhất và những định hướng chủ yếu xuyên suốt thời gian 5 năm tới; có tính khái quát cao và ngắn gọn.

2. Nội dung các thành tố của chủ đề Đại hội XII

Cách tiếp cận chủ yếu trong xác định chủ đề Đại hội là đi từ một số thành tố quan trọng gắn với những yêu cầu cơ bản và sát với những vấn đề bức xúc được đặt ra từ thực tiễn trong nhiệm kỳ Đại hội.

Đại hội XI đã xác định chủ đề (đồng thời cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị) là: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

Trên cơ sở một số phương án về chủ đề Đại hội XII do Tiểu ban Văn kiện và Bộ Chính trị trình, kế thừa Đại hội XI và để sát hợp với những vấn đề cơ bản và yêu cầu thực tiễn bức thiết đặt ra trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Trung ương thống nhất cao chủ đề Đại hội XII đề cập 5 thành tố với nội dung như sau:

- Về thành tố "sự lãnh đạo của Đảng"

Nội dung là: "tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh".

- Về thành tố "dân tộc, dân chủ"

Nội dung là: "phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa".

- Về thành tố "đổi mới"

Nội dung là: "đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới".

- Về thành tố: "bảo vệ Tổ quốc"

Nội dung là: "bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định".

- Về thành tố "mục tiêu xây dựng đất nước"

Nội dung là: "xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

Nội dung 5 thành tố của Đại hội XII đã được Trung ương thống nhất thể hiện trong tiêu đề Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XII để đại hội đảng bộ các cấp thảo luận như sau:

"Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

II. PHƯƠNG CHÂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẠI HỘI XII

1. Sự cần thiết và yêu cầu đối với phương châm chỉ đạo của Đại hội

Trung ương đã thảo luận và thống nhất khẳng định cần nêu phương châm chỉ đạo của Đại hội để xác định rõ tinh thần, trách nhiệm đối với các đại biểu tham dự Đại hội (không phải là phương châm chỉ đạo của cả nhiệm kỳ).

Phương châm chỉ đạo của Đại hội cần xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn; nội dung gọn, rõ, dễ nhớ.

2. Nội dung các thành tố phương châm chỉ đạo của Đại hội XII

Phương châm chỉ đạo của Đại hội XI được xác định là: "Đổi mới - Trí tuệ - Dân chủ - Đoàn kết".

Kế thừa phương châm chỉ đạo của Đại hội XI và để sát hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được đặt ra từ thực tiễn, Trung ương thống nhất nêu một số phương án về phương châm chỉ đạo của Đại hội XII để đại hội Đảng các cấp tiếp tục thảo luận, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là:

- "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới";

- "Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo - Phát triển";

- "Bản lĩnh - Dân chủ - Kỷ cương - Đoàn kết".

 

 

 

 Phần thứ hai

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011 - 2015)
 VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016);
MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 5 NĂM (2016 - 2020)

 


I. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI (2011 - 2015) và NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)

1. Bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước tác động đến việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng

Để đánh giá chính xác kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, làm rõ những thành quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, cần xem xét bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước về các mặt, những tác động thuận và không thuận, những thời cơ và thách thức đối với nước ta 5 năm qua. Có như vậy mới xác định rõ nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của cả ưu điểm và khuyết điểm.

Dự thảo văn kiện đã nêu, tình hình thế giới, khu vực 5 năm qua diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức gay gắt.

Một số tình hình thế giới, khu vực tác động mạnh đến nước ta là:

- Kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo: Tháng 10-2010, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo kinh tế thế giới năm 2011 tăng 4,2%, giai đoạn 2012-2015 tăng 4,6%/năm; thực tế tăng trưởng kinh tế thế giới (theo Báo cáo của IMF vào tháng 1-2015) năm 2011 tăng 3,9%, năm 2012 tăng 3,2%, năm 2013 tăng 3,3%, năm 2014 tăng 3,3% và năm 2015 dự kiến tăng 3,5%. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm trọng hơn ở nhiều quốc gia. Nhiều nước tăng cường bảo hộ thương mại và sản xuất. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động làm cho mặt trái của chính sách kích cầu và những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn.

- Khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; các nước lớn cạnh tranh quyết liệt giành ảnh hưởng trong khu vực. Tình hình phức tạp, căng thẳng ở Biển Đông đe dọa nghiêm trọng hoà bình, ổn định và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ở trong nước, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo những điều kiện và tiền đề thuận lợi cho sự phát triển đất nước trong nhiệm kỳ 2011 - 2015. Giai đoạn 2006 - 2010 tăng trưởng kinh tế đạt 7%/năm. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình và hoàn thành nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Dự thảo văn kiện nêu một số điểm nổi bật của bối cảnh tình hình trong nước 5 năm qua là: Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta cũng phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước trước những động thái mới của tình hình khu vực và quốc tế.

Trước diễn biến mới của tình hình, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng - an ninh và ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.

2. Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015)

Để đánh giá đúng, cần phải có các quan điểm tiếp cận khách quan (nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật), toàn diện (thấy cả mặt ưu điểm và khuyết điểm, nguyên nhân khách quan và chủ quan) và phát triển (xét trong trạng thái động, xu hướng của tình hình), gắn với thực tiễn và điều kiện lịch sử - cụ thể của thế giới, khu vực và trong nước.

2.1. Thành quả và nguyên nhân

Khi đánh giá còn có ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng 5 năm qua trong điều kiện rất khó khăn, nhiều thách thức mà chúng ta đạt được những thành tích như vậy thì phải đánh giá rằng, chúng ta đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng. Ngược lại, có ý kiến cho rằng chỉ nên đánh giá là đạt được những kết quả nhất định.

Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật một cách toàn diện, Dự thảo đánh giá: "Nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng". Đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục.

Những thành quả quan trọng được thể hiện trên các mặt sau đây:

- Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và phối hợp tốt hơn với chính sách tài khoá. Cơ bản bảo đảm được các cân đối lớn của nền kinh tế, lạm phát giảm từ 18,13% năm 2011 xuống còn khoảng 5% năm 2015, cán cân thương mại được cải thiện; cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao. Dự trữ ngoại hối đạt mức cao nhất từ trước tới nay.

- Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên.

Tăng trưởng kinh tế tuy thấp hơn 5 năm trước nhưng vẫn đạt tốc độ khá.

- Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện; môi trường đầu tư kinh doanh và năng lực cạnh tranh có bước cải thiện. Phát triển nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ đạt được những kết quả tích cực. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đạt kết quả quan trọng.

- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực bước đầu.

- Văn hoá, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.

- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực.

- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hoà bình, ổn định được giữ vững để phát triển đất nước.

- Quan hệ đối ngoại, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy.

- Tiếp tục hoàn thiện quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đã xây dựng và thực thi Hiến pháp năm 2013; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính đạt những kết quả tích cực; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chú trọng.

- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng - đặc biệt Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" được triển khai thực hiện, đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo tiền đề để đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng.

Những kết quả nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn mới.

Nguyên nhân của thành quả:

Những thành quả đạt được 5 năm qua có nhiều nguyên nhân.

- Nguyên nhân quan trọng nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, giải quyết kịp thời, có kết quả nhiều vấn đề mới phát sinh. Trước Đại hội XI, từ kết quả đạt được của giai đoạn 2006 - 2010 và do chưa lường hết được những khó khăn, thách thức nên những chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội đề ra cho 5 năm 2011 - 2015 là khá cao (như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015 là 7,0 - 7,5%). Sau Đại hội XI, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Trước diễn biến của tình hình, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp với thực tế. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, nỗ lực phấn đấu để đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Nghị quyết Trung ương 7 về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới", Kết luận Hội nghị Trung ương 7 về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở". Chú trọng nhiệm vụ phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Tại các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8, 9 đã ban hành các nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, về giải quyết các vấn đề xã hội, về phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam,...

- Hoạt động của Quốc hội được đổi mới, nâng cao chất lượng, ngày càng đi vào thực chất, dân chủ; chất lượng ban hành luật, pháp lệnh được nâng lên, tăng cường công tác giám sát tối cao của Quốc hội; đã ban hành Hiến pháp năm 2013 có nhiều đổi mới, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của nhân dân; đã tổ chức thành công Hội nghị Liên minh nghị viện thế giới (IPU) lần thứ 132.

- Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp đã quản lý, điều hành năng động, thường xuyên bám sát diễn biến của tình hình để đưa ra các chủ trương, giải pháp phù hợp; quan tâm đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế và đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành nền kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường.

- Tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa để huy động các nguồn lực, các giai tầng xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế cả chiều rộng và đặc biệt đi vào chiều sâu, đem lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước diễn biến phức tạp và nghiêm trọng của tình hình ở Biển Đông, Đảng, Nhà nước ta đã có chủ trương và giải pháp phù hợp, kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, đồng thời giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và quan hệ hữu nghị với các nước để phát triển đất nước.

2.2. Những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân

Bên cạnh những thành quả quan trọng đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm:

- Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện.

- Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được.

- Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn.

- Kinh tế tăng trưởng thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.

- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, tiếp tục là những yếu tố cản trở phát triển.

- Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.

- Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội chậm được khắc phục.

- Ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn bất cập.

- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,... chưa được ngăn chặn và đẩy lùi; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp.

- Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều mặt còn hạn chế. Quản lý xã hội còn một số mặt bất cập.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, phép nước chưa nghiêm.

- Một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.

- Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.

- Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.

- Một số mặt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động, đan xen lẫn nhau.

Nguyên nhân khách quan là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những diễn biến mới phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch.

Song nguyên nhân chủ quan là trực tiếp và quyết định nhất.

- Cuối nhiệm kỳ khoá X, kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng, song một số khó khăn, hạn chế và những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã bộc lộ, nhưng do chưa đánh giá và dự báo đầy đủ, nên Đại hội XI đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ khá cao.

- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được kịp thời một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới.

- Nhiều hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục.

- Chưa chú trọng đúng mức tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp khi tập trung thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

- Chưa quyết liệt trong việc chỉ đạo thực hiện một số chủ trương, quan điểm phát triển đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và các đột phá chiến lược, chưa tạo được cơ chế, chính sách có tính đột phá để huy động mọi nguồn lực cho phát triển.

- Năng lực dự báo còn hạn chế, cho nên một số chủ trương, chính sách, giải pháp đề ra chưa phù hợp.

3. Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc lịch sử và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Sau 30 năm, chúng ta có điều kiện đánh giá khách quan, khoa học quá trình đổi mới đất nước, nhất là trong 10 năm gần đây, rút ra những bài học, tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên giành những thắng lợi mới.

Căn cứ Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã nêu một cách tổng quát những nội dung tổng kết.

3.1. Đánh giá tổng quát

Để đánh giá đúng đắn thành tựu của 30 năm đổi mới, cần quán triệt phương pháp luận duy vật biện chứng, xem xét quá trình đổi mới trong bối cảnh diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường của tình hình quốc tế, khu vực, và đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt; khẳng định những thành tựu, đồng thời cũng phải thấy hết những hạn chế, yếu kém để có phương hướng khắc phục, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên.

20 năm đầu đổi mới (1986 - 2006), đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. 10 năm gần đây (2006 - 2016), dù phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức, tốc độ tăng trưởng suy giảm, song đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đây là một đánh giá khách quan, khoa học.

3.2. Thành tựu

- Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

- Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.

- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường.

- Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.

- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

- Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững.

- Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

3.3. Hạn chế, khuyết điểm

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm.

- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

- Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

- Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế" và nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

3.4. Một số bài học của 30 năm đổi mới

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, yếu kém, rút ra một số bài học sau:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Chính những ý kiến, nguyện vọng chính đáng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Chính nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải dựa vào nhân dân.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân để nhân dân thực sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi mới. Đồng thời cần phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với lộ trình, bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, duy ý chí, dẫn đến gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội để các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; ngược lại, phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.

Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới. Xa rời thực tiễn, lý luận đổi mới trở thành lý luận suông, không có sức sống.

Để dân tin, dân ủng hộ, dân thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở phát triển; thực hiện nói đi đôi với làm.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để

Liên kết website khác